Get me outta here!

Thứ Ba, 23 tháng 5, 2017

6 mẹo phòng bệnh hô hấp ở trẻ em vào mùa hè

Nuôi con bằng sữa mẹ, tiêm phòng đầy đủ, rửa tay thường xuyên, cách ly vùng dịch bệnh, chăm sóc tích cực khi trẻ ốm... là những mẹo mẹ nên biết.

Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Diệu Thúy - Trưởng bộ môn nhi, Đại học Y Hà Nội, 50-80% trẻ đến bệnh viện khám vì viêm tai - mũi - họng. Song mẹ đừng quá lo lắng, để trẻ bớt ốm có thể áp dụng các biện pháp sau:

Không lạm dụng kháng sinh

Sau mỗi đợt ốm, sức đề kháng của trẻ sẽ tăng lên đáng kể nếu không lạm dụng kháng sinh. Đây là cơ hội quý giá để rèn luyện hệ miễn dịch, giúp bé càng lớn càng ít ốm hoặc tái bệnh nhẹ hơn.

Kháng sinh ức chế vi khuẩn, nhưng không có tác dụng với virus. Mẹ có thể phân biệt trẻ mắc bệnh hô hấp do vi khuẩn hay virus để có phương án chăm sóc hợp lý. 80% bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp do virus và sẽ tự khỏi sau 5-10 ngày. Biểu hiện thường gặp là viêm đường hô hấp, hắt hơi, sổ mũi, đau đầu, sốt, đau mỏi người, nhức mắt... Nếu do vi khuẩn, trẻ thường có dấu hiệu mệt mỏi, sốt cao, ăn uống kém, ho khạc đờm đục, xanh hoặc vàng.

Chăm sóc tích cực khi trẻ ốm

Cha mẹ nên chăm sóc tích cực, hạ sốt bằng chườm mát, giảm ho bằng các liệu pháp thảo dược, vệ sinh mũi - họng, tăng cường uống nước, ăn các thực phẩm dinh dưỡng… Trong trường hợp bệnh có dấu hiệu nặng lên, cần đưa trẻ tới bệnh viện để bác sĩ kiểm tra trẻ nhiễm virus hay vi khuẩn, sau đó chỉ định thuốc phù hợp.
Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Diệu Thúy - Trưởng bộ môn nhi, Đại học Y Hà Nội.

Nuôi con bằng sữa mẹ

Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tự nhiên tốt nhất cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Không chỉ giàu vitamin và khoáng chất cần thiết, sữa mẹ còn chứa hàng tỷ kháng thể giúp tăng cường hệ miễn dịch cho trẻ. Sữa non màu vàng tiết ra trong vài ngày đầu sau sinh dồi dào kháng thể nhất. WHO khuyến cáo, mẹ nên nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu đời, duy trì đến khi 2 tuổi.

Tiêm vắcxin đầy đủ 

Tiêm chủng là biện pháp thiết lập hệ miễn dịch chủ động cho trẻ, giúp cơ thể tập dượt cách chống lại các bệnh nguy hiểm. Hiện có hơn 20 loại vắcxin phòng lao, sởi, quai bị, thủy đậu, viêm gan B, viêm não Nhật Bản, viêm phổi, tiêu chảy, cúm mùa… mà mẹ nên cho trẻ tiêm đầy đủ.

Giữ vệ sinh sạch sẽ

Cha mẹ nên rèn cho trẻ thói quen rửa tay thường xuyên, tắm táp hàng ngày để hạn chế mầm bệnh truyền nhiễm. Tốt nhất nên rửa tay trước khi ăn, sau khi vệ sinh, chơi với động vật… Khi đi chơi về, nên nhỏ nước muối để chăm sóc mắt, mũi.

Bổ sung chất tăng miễn dịch

Các chất tăng đề kháng cho trẻ gồm có vitamin C, chất chống oxy hóa, nhóm Beta-glucan... Chúng kích hoạt hệ thống miễn dịch của trẻ, chống lại các tác nhân gây bệnh hiệu quả hơn. Nhờ vậy trẻ ít ốm, hoặc nhanh hồi phục sức khỏe hơn khi bệnh. Mẹ có thể bổ sung các chất này qua đường ăn uống hoặc chế phẩm sinh học.

Thứ Tư, 10 tháng 5, 2017

4 bệnh hô hấp không cần thiết phải dùng kháng sinh

Trẻ cảm cúm, viêm họng, viêm phế quản, viêm xoang phần lớn khỏi sau 5-6 ngày mà không cần dùng kháng sinh.

Không ít cha mẹ tin rằng, kháng sinh là thần dược trị dứt điểm mọi bệnh tật cho trẻ. Trên thực tế, mỗi năm trẻ dưới 5 tuổi có thể mắc 4-12 lần các bệnh viêm đường hô hấp thường gặp (cảm cúm, viêm họng, viêm phế quản, viêm xoang). Song phần lớn chúng đều tự khỏi sau 5-6 ngày hoặc lâu hơn một vài tuần, đây là khoảng thời gian cần thiết để hệ miễn dịch của trẻ hội đủ điều kiện tiêu diệt vi trùng gây bệnh.
Mỗi năm trẻ dưới 5 tuổi có thể mắc 4-12 lần bệnh viêm đường hô hấp.

Cảm cúm

Trẻ cảm cúm khi viêm nhiễm đường hô hấp trên với các biểu hiện sốt, đau họng, chảy nước mũi, ho khan hoặc ho có đờm… Thủ phạm gây cảm cúm chủ yếu là virus, cha mẹ nên dành thời gian chăm sóc tích cực cho trẻ chứ không nên bắt con uống kháng sinh.

Viêm họng

Khi trẻ đau họng, ho dữ dội hoặc kéo dài, phụ huynh thường lo lắng thái quá mà tìm đến thuốc kháng sinh trị bệnh. Tuy nhiên, hầu hết trường hợp viêm họng do virus. Kháng sinh chỉ tiêu diệt được vi khuẩn, không có hiệu lực với virus. Cha mẹ nên cho trẻ súc miệng nước muối, hút sạch nước mũi, hạ sốt đúng cách kết hợp chăm sóc bữa ăn, bổ sung chất tăng đề kháng giúp cải thiện miễn dịch.

Một số trường hợp viêm họng kèm sốt cao trên 38,5 độ; xuất hiện các đốm trắng trên amiđan; hắt hơi; sưng đau hạch cổ... nên nghi ngờ trẻ viêm họng do liên cầu khuẩn. Lúc này trẻ cần được khám để bác sĩ xác định đúng chủng vi khuẩn gây bệnh và chỉ định dùng kháng sinh phù hợp.

Viêm phế quản

Bệnh viêm phế quản hay gặp ở trẻ em, nhất là bé dưới một tuổi. Những trẻ đang mắc bệnh nhiễm trùng như cúm, sởi, ho gà... có thể chuyển thành viêm phế quản. Trẻ đẻ non, còi xương, suy dinh dưỡng cũng dễ mắc và thường diễn tiến nặng đến viêm phổi.

Tuy nhiên, viêm phế quản chủ yếu do virus gây nên, việc dùng kháng sinh không đem lại lợi ích điều trị. Bác sĩ thường kê thuốc giảm ho, long đờm, tiêu đờm, giãn phế quản... tùy theo mức độ bệnh. Cha mẹ cần theo dõi con sát sao, chỉ sử dụng kháng sinh khi có bằng chứng thể hiện là nhiễm khuẩn.

Viêm mũi xoang dị ứng

Bệnh do cơ địa trẻ có phản ứng dị ứng khi gặp kháng nguyên hoặc thời tiết thay đổi. Trẻ thường hắt hơi, chảy mũi trong, ho, đau đầu, đau vùng xoang trán, sốt nhẹ… Các thuốc chống dị ứng sẽ có hiệu quả trong trường hợp này. Nếu triệu chứng bệnh kéo dài trên một tuần, hoặc viêm xoang lặp lại nhiều lần, có thể trẻ đã nhiễm khuẩn thứ phát. Lúc này mới cần dùng kháng sinh và tuyệt đối sử dụng theo chỉ định của bác sĩ.

Các bệnh đường hô hấp trên phần lớn tự khỏi nếu trẻ được chăm sóc đúng cách như sau:

Ăn uống đầy đủ, không kiêng cữ: Bữa ăn đầy đủ chất dinh dưỡng giúp nâng cao thể trạng cho bé. Trẻ ốm thường khó ăn và dễ ói, nên cho thức ăn nhẹ, dễ tiêu, chia làm nhiều bữa trong ngày, nhưng vẫn phải đảm bảo đủ năng lượng.

Vệ sinh mũi họng: Vệ sinh bằng nước muối sinh lý 2-3 lần mỗi ngày.

Cho trẻ bú đủ: Nếu trẻ đã ăn dặm, nên tích cực cho trẻ uống nhiều nước hoặc chất điện giải.

Mặc ấm hoặc thoáng theo thời tiết: Khi trời lạnh cần cho trẻ mặc đủ ấm. Trời nóng, cần mặc quần áo thoáng mát, lau khô mồ hôi thường xuyên, tránh để quạt máy thổi thẳng vào trẻ. Nếu bật điều hòa, không nên để nhiệt độ quá lạnh, tránh luồng gió thổi trực tiếp lên người.

Vệ sinh nhà cửa: Dọn dẹp giường ngủ, đồ dùng cá nhân của bé. Tránh khói thuốc lá và các tác nhân có thể gây dị ứng khác như bụi, khói ô nhiễm, lông thú nuôi, phấn hoa…

Dùng thuốc giảm triệu chứng: Ví dụ như thuốc hạ sốt khi trẻ sốt cao trên 38,5 độ; thuốc ho thảo dược giúp tiêu đờm, giảm ho…

Bổ sung chất tăng cường miễn dịch: Thời điểm trước giao mùa hoặc sau ốm, có thể bổ sung cho trẻ một đợt chất tăng cường miễn dịch. Nên chọn sản phẩm của thương hiệu uy tín, được nghiên cứu khoa học, an toàn với trẻ nhỏ.

Thứ Hai, 24 tháng 4, 2017

Bí quyết bảo vệ đường hô hấp ở trẻ

Nhắc tới trẻ nhỏ, đặc biệt giai đoạn từ 6 tháng tới 4 tuổi sẽ thấy những bệnh đường hô hấp xảy ra “như cơm bữa”. Vậy làm thế nào để bảo vệ sức khỏe đường hô hấp cho trẻ hiệu quả?

Trẻ dễ bị bệnh đường hô hấp chỉ vì sức đề kháng kém

Viêm đường hô hấp là tình trạng các bệnh ốm vặt thường gặp ở trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ từ 6 tháng đến 4 tuổi. Trong khi sức đề kháng chính là hàng rào bảo vệ cơ thể chống lại các tác nhân gây bệnh nhất ở trẻ nhỏ, thì giai đoạn này, chính là khoảng trống miễn dịch. Đây là lúc sức đề kháng của bé không tốt, khiến trẻ rất dễ mắc bệnh. Trong đó, các bệnh nhiễm khuẩn đáng lo ngại nhất (viêm họng, viêm phế quản phổi, bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, sởi, lao phổi, sốt xuất huyết…).

ThS. BS Lê Thị Hải, Nguyên GĐ Trung tâm Khám tư vấn dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng Quốc gia, từ khi còn trong bụng mẹ, bản thân trẻ đã có một sức đề kháng nhất định để chống lại các tác nhân không có lợi. Trong đó, có kháng thể mẹ truyền cho con qua nhau thai. Tuy nhiên, có một số trẻ từ khi sinh ra đã ốm yếu, hay ốm đau do sức đề kháng của mẹ cũng không tốt nên không truyền sang cho con được. Sữa non ngay từ những ngày đầu mới sinh của mẹ rất giàu kháng thể, do vậy, các mẹ nên tận dụng cho bé bú ngay từ những ngày đầu tiên. Những bé được bú mẹ sớm sẽ có sức đề kháng tốt hơn.

Tiếc là, sức đề kháng từ mẹ truyền sang con, chỉ tồn tại trong cơ thể đứa trẻ khoảng 6 tháng tuổi đầu tiên. Trong khi đó, sức đề kháng của bản thân bé lúc này hình thành và phải đến ngoài 4 tuổi mới hoàn thiện.  Khi hệ miễn dịch của trẻ chưa hoàn thiện hoặc bị suy giảm chính là cơ hội để các tác nhân gây bệnh vi khuẩn, vi rút từ môi trường ô nhiễm….xâm nhập, vì vậy mà trẻ hay bị ốm, nhất là các bệnh về đường hô hấp.

Immune Alpha – dưỡng chất vàng bảo vệ sức khỏe đường hô hấp của trẻ

Để giúp trẻ không bị ốm vặt thường xuyên, nhất là trong giai đoạn khoảng trống miễn dịch, rất nhiều dưỡng chất được lựa chọn bổ sung, giúp tăng cường sức đề kháng cho trẻ trong giai đoạn này, phải kể tới Immune Alpha.
Immune Alpha (chiết xuất từ vách tế bào nấm men Saccharomyces cerevisiae) được  sản xuất theo công nghệ Mỹ đã được chứng minh có hiệu quả tăng cường miễn dịch, tăng cường sức đề kháng của cơ thể và làm giảm triệu chứng nhiễm trùng đường hô hấp trên và dưới.

BS Lê Thị Hải chỉ rõ, hệ miễn dịch trong ruột chiếm 70 – 80 % các tế bào miễn dịch của toàn cơ thể, bao gồm các lymphô bào B và T, đại thực bào, bạch cầu đa nhân, các tương bào tiết IgA. Immune Alpha giúp kích thích tạo ra và nuôi dưỡng các tế bào miễn dịch tại màng ruột. Nhờ đó, giúp cơ thể tăng cường sức đề kháng.

Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng, Immune Alpha giúp làm giảm triệu chứng nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, làm tăng IgA trong nước bọt và giảm khả năng bị cảm lạnh, làm tăng bạch cầu đơn nhân và hoạt động của cytokines nhờ đó giảm nguy cơ lây viêm nhiễm. Immune Alpha còn có tác dụng trên chuyển hóa, chống khối u và điều biến hệ miễn dịch.

Bác sĩ Lê Thị Hải chia sẻ cách giúp trẻ thoát khỏi vòng xoáy bệnh lý bằng cách tăng cường sức đề kháng, xem full Video: https://vimeo.com/189732117

Khi Immune Alpha kết hợp cùng  Sữa non Colostrum, chất xơ hòa tan FOS sẽ giúp không chỉ tăng “sức nặng” bảo vệ sức khỏe đường hô hấp mà còn giúp trẻ giảm tất cả các bệnh ốm vặt.

Thực phẩm chức năng   Pre-VIPTEEN - Giúp nâng tầm cao và trí tuệ Việt

- Pre-VIPTEEN (Gồm hai loại là Pre Vipteen 2 & Pre Vipteen 3), với các ưu điểm vượt trội:

Chứa đa dạng các dưỡng chất cần thiết giúp trẻ phát triển chiều cao như MK7, vitamin D3, Canxi, kẽm, Magie, Acid folic. Trong đó, Canxi và Kẽm dạng nano, MK7 được chiết xuất từ đậu tương lên men theo phương pháp truyền thống “Natto” của Nhật Bản.

- Pre Vipteen 2 được bổ sung thêm Immune Alpha, Sữa non, Fos. Mang lại 2 tác dụng, giúp:

+ Phát triển chiều cao

+ Tăng cường sức đề kháng

- Pre Vipteen 3 được bổ sung thêm DHA, EPA, Taurin, Cao Bilberry, FOS. Mang lại 3 tác dụng, giúp:

+ Phát triển chiều cao

+ Phát triển trí não

+ Bảo  vệ mắt

Cả hai loại dùng được cho trẻ từ 6 tháng – 9 tuổi (tùy theo nhu cầu)

Nên sử dụng thành đợt từ 3-6 tháng để đạt hiệu quả cao.

Có thể sử dụng hàng ngày và thường xuyên để thu được kết quả cao nhất.

Để đạt hiệu quả tối đa, cần kết hợp với việc ăn uống đủ dưỡng chất, sinh hoạt điều độ, tập thể dục đều đặn và ngủ đủ giấc.

Qui cách: Hộp 20 gói cốm

>> Xem điểm bán sản phẩm Vipteen  TẠI ĐÂY

>> Tổng đài tư vấn sức khỏe trẻ em: 19001259

>> Website: http://vipteen.com.vn

Sản phẩm của :

CÔNG TY CỔ PHẦN DƯỢC PHẨM VINH GIA

Địa chỉ : 116 Trần Bình, phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, TP Hà nội. Liên hệ: 043.537.6763

Giấy xác nhận NDQC số: 305-1131/2015/XNQC-ATTP

Lưu ý: Sản phẩm có bổ sung vitamin K2 (MK7), nên hỏi ý kiến bác sĩ khi đang dùng thuốc chống đông máu

Sản phẩm này không phải là thuốc và không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh

Thứ Hai, 17 tháng 4, 2017

Phòng bệnh viêm đường hô hấp

Con tôi 34 tháng, sức khỏe và cân nặng bình thường. Tuy nhiên, cháu rất dễ bị viêm đường hô hấp khi thời tiết thay đổi, đặc biệt là khi chuyển mùa.

Con tôi 34 tháng, sức khỏe và cân nặng bình thường. Tuy nhiên, cháu rất dễ bị viêm đường hô hấp khi thời tiết thay đổi, đặc biệt là khi chuyển mùa. Xin hỏi mỗi khi có triệu chứng hắt hơi, sổ mũi, đau họng có nên cho cháu uống kháng sinh ngay không và làm thế nào để phòng tránh?

Theo mô tả của bạn thì có thể bé đã bị viêm đường hô hấp do dị ứng. Khi thời tiết thay đổi, trẻ em rất dễ mắc bệnh. Ngoài nguyên nhân thời tiết còn do quan niệm sai lầm của bố mẹ (cho trẻ uống nhiều nước lạnh, tắm nhiều lần trong ngày để giảm nóng, nằm quạt quá lâu, để điều hòa với nhiệt độ quá thấp, thời tiết nóng lạnh thay đổi bất thường khiến bố mẹ không kịp để ý khiến con bị lạnh, hoặc cho trẻ sinh hoạt ngoài trời lâu...). Tuy nhiên, bạn chú ý, chỉ cho trẻ uống kháng sinh khi có viêm họng và sốt, vì vậy khi trẻ đã có sốt và đau họng, cần đưa bé đến khám bác sĩ nhi khoa để được điều trị. Nếu không đau họng và sốt, bạn chỉ cần cho bé uống thuốc điều trị triệu chứng ho, sổ mũi thông thường. Để phòng bệnh đường hô hấp, các bậc cha mẹ cần đưa bé đi tiêm chủng đầy đủ. Nên đảm bảo chế độ dinh dưỡng đúng và đủ, uống đủ nước, thực hiện các biện pháp vệ sinh thông thường để phòng chống bệnh như: rửa tay bằng xà phòng, trước khi chuẩn bị thức ăn cho trẻ, sau khi đi vệ sinh, để ý không để trẻ bị quá nóng hay lạnh... Làm thế hy vọng con bạn sẽ thích ứng và không bị ốm khi thời tiết thất thường như hiện nay.

Xem thêm : Phòng ngừa bệnh viêm mũi họng

Thứ Hai, 10 tháng 4, 2017

Phòng ngừa, chăm sóc bệnh viêm mũi họng khi chuyển đổi thời tiết

Thời tiết thay đổi tạo điều kiện cho nhiều bệnh đường hô hấp xuất hiện, trong đó phải kể đến viêm mũi họng cấp.

Ở trẻ em viêm mũi họng cấp xuất hiện có thể riêng biệt, nhưng thường có kèm theo viêm VA (amidan ở vòm mũi họng), viêm amiđan, đôi khi có thêm viêm phế quản.

Thời tiết chuyển mùa: bệnh xuất hiện

Viêm mũi họng cấp tính là bệnh khá phổ biến, bệnh xảy ra quanh năm nhưng khi thời tiết chuyển mùa thì viêm mũi họng cấp dễ dàng xuất hiện.

Viêm mũi họng cấp là tình trạng viêm niêm mạc mũi họng xảy ra một cách đột ngột gây nên bởi virut (cúm, sởi, Adenovirus...), vi khuẩn (phế cầu, tụ cầu, liên cầu, Hemophillus influenzae...). Nguy hiểm hơn cả là liên cầu khuẩn nhóm A (S.pyogenes) vì nó là thủ phạm gây nên biến chứng như viêm khớp cấp (thấp tim tiến triển), viêm vi cầu thận cấp là những bệnh khá nguy hiểm hoặc viêm họng cấp do nấm (Candida).

Ngoài các nguyên nhân trên phải kể đến các yếu tố nguy cơ như thay đổi thời tiết (gió mùa đông bắc), lạnh quá, ẩm quá, bụi bẩn, bụi công nghiệp, khói (thuốc lá, thuốc lào, khói bếp than, củi, rơm rạ) và có thể do tác động của rượu.

Triệu chứng điển hình

Đầu tiên bệnh nhân ngứa mũi, hắt hơi, nặng đầu, mỏi tay chân. Sau đó mũi bắt đầu nghẹt chảy nước trong và loãng, kèm sốt cao, đột ngột (39 – 40 độ C), ớn lạnh, nhức đầu, nuốt đau, đau mỏi thân mình, ăn, ngủ kém. Một số trường hợp có hạch cổ sưng và đau. Người bệnh ở giai đoạn đầu có cảm giác khô nóng trong họng, khát nước, dần dần cảm giác đau rát tăng lên khi nuốt và khi nói, đau lan lên tai và đau nhói khi nuốt. Thông thường có rát họng và ho khan. Vài ba ngày sau, nếu không được phát hiện và điều trị có thể có khàn tiếng.

Khi mũi bị viêm sẽ sinh ra dịch chảy xuống họng khiến họng rất dễ bị viêm nhiễm dẫn đến viêm họng. Hơn thế, khi bị viêm mũi, người ta sẽ không tự thở bằng mũi như thông thường mà sẽ phải thở bằng miệng. Vô hình chung, lượng không khí đi từ ngoài vào cơ thể không được làm ấm và thanh lọc như bình thường sẽ đi thẳng xuống họng. Lúc này họng sẽ dễ dàng bị lạnh và tổn thương khiến cho các bệnh về đường hô hấp dễ xâm nhập. Tình trạng này gây khó tập trung suy nghĩ, đôi khi ăn không ngon, ngủ không yên giấc, ảnh hưởng đến sức khỏe. Các bệnh viêm mũi, họng cũng rất dễ phát sinh trong thời tiết khô lạnh và thường kéo dài, nếu để lâu có thể trở nặng, thành mạn tính.

Khi khám sẽ thấy toàn bộ niêm mạc mũi họng đỏ rực. Màn hầu, trụ trước, trụ sau và thành sau họng phù nề, đỏ, xuất tiết. Hai amiđan sưng to, thường có hốc, có thể có mủ hoặc bựa trắng như nước cháo phủ trên bề mặt.

Trong trường hợp viêm họng cấp do virut cúm thì các triệu chứng khá nặng, nhức đầu, đau rát họng, xuất huyết ở thành sau họng. Hoặc viêm họng cấp do virut APC (Adeno-Pharyngo-Conjunctival) thì xuất tiết mũi, niêm mạc họng đỏ, viêm màng tiếp hợp và sưng hạch cổ.

Bệnh viêm mũi họng cấp khi thời tiết chuyển mùa thường diễn ra trong vòng 3 - 4 ngày, nếu sức đề kháng tốt bệnh sẽ lui dần, các triệu chứng trên sẽ mất đi rất nhanh. Nhưng khi sức đề kháng yếu (trẻ em, người cao tuổi) thì bệnh diễn biến phức tạp hơn, nặng hơn và có thể gây biến chứng như viêm tai, viêm mũi, phế quản phế viêm và trở thành viêm mũi họng mạn tính; hoặc thấp tim tiến triển, viêm cầu thận cấp nếu tác nhân gây bệnh là vi khuẩn liên cầu nhóm A (S.pyogenes).

Chăm sóc điều trị

Cần bù nước và chất điện giải do sốt cao gây ra. Tốt nhất là uống dung dịch oresol (ORS), có thể dùng ORS cam loại 5,63g/gói cho cả người lớn và trẻ em, pha 1 gói vào 200ml nước (đun sôi, để nguội). Thông thường sử dụng ORS như sau:

- Trẻ nhũ nhi thì dùng 50ml/lần, 2 - 3 lần/ngày.

- Trẻ từ 2 - 6 tuổi dùng 100ml/lần, 2 - 3 lần/ngày.

- Trẻ từ 6 - 12 tuổi dùng 150ml/lần, 2 - 3 lần/ngày.

- Với người lớn dùng theo nhu cầu.

Thức ăn nên dùng loại mềm, nhuyễn, dễ nuốt, ăn thêm rau, trái cây. Cần phải nghỉ ngơi, giữ ấm cơ thể, nhất là cổ, ngực, gan bàn chân. Nên tắm bằng nước ấm trong phòng kín gió, tắm xong phải lau người thật khô rồi mặc quần áo sạch. Cần vệ sinh họng, miệng như đánh răng sau khi ăn, trước và sau khi ngủ dậy. Nên súc họng bằng nước muối nhạt hằng ngày.

Về điều trị, điều trị triệu chứng là chủ yếu. Cần dùng thuốc hạ sốt khi bệnh nhân sốt cao. Chống đau họng bằng cách súc họng hằng ngày bằng nước muối loãng. Trẻ em nhỏ mũi bằng nước muối sinh lý. Nguyên tắc điều trị phải dựa vào nguyên nhân gây bệnh, trong trường hợp xác định được vi khuẩn và có kết quả của kháng sinh đồ thì nên lựa chọn kháng sinh để điều trị cho thích hợp với tuổi, tình trạng bệnh và tính động học của kháng sinh. Việc dùng thuốc để điều trị phải tuân theo chỉ định của bác sĩ khám bệnh, không tự động mua thuốc để chữa bệnh cho mình và người nhà.

Phòng bệnh

Giữ ấm cơ thể khi trời lạnh, tránh: quạt máy, máy lạnh, bụi khói, nước đá, thức khuya. Ăn uống và thể dục điều độ.

Những điều cần lưu ý

+ Không tự ý nhỏ mũi bằng các thuốc co mạch kéo dài như: Rhinex, Otrivin,… nhất là đối vói trẻ em.

+ Khị trẻ sốt cao không nên ủ ấm quá hoặc ở trong phòng lạnh < 25 độ.

+ Không dùng tăm bông ngoáy tai để lau mũi cho bé.

+ Không để trẻ dùng tay móc hoặc dụi mũi vì dễ gây chảy máu mũi.

Thứ Hai, 3 tháng 4, 2017

Trẻ bị viêm họng có nên dùng kháng sinh?

Theo các bác sĩ đa số các trường hợp trẻ bị viêm họng không cần dùng kháng sinh.

Theo PGS Dũng, trẻ chỉ được dùng thuốc khi được bác sĩ khám và chẩn đoán chính xác bệnh. 
“Thấy con húng hắng ho, nhiều bà mẹ ngay lập tức cho con uống kháng sinh vì sợ biến chứng viêm phổi. Điều này có đúng hay không?”, Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng, Khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) sẽ lý giải điều này.

PGS.TS. Nguyễn Tiến Dũng cho biết, đa số các trường hợp trẻ bị viêm họng không cần dùng kháng sinh. Bởi viêm họng cấp là bệnh rất thường gặp ở trẻ, nhất là khi thời tiết chuyển mùa. Tuy nhiên, đây cũng là nhóm bệnh hay bị lạm dụng kháng sinh trong điều trị nhất.

Theo PGS Dũng, nhiễm khuẩn hô hấp trên hoặc viêm họng cấp với biểu hiện chính là ho và sốt là nhóm bệnh rất thường gặp ở trẻ.

Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu là virus (chiếm 70-80%). Trong đó, chủ yếu là các virus đường hô hấp; kháng sinh hoàn toàn không có tác dụng.

Bệnh thường tự khỏi sau 3-7 ngày, vì thế cha mẹ không nên cho trẻ dùng kháng sinh trong các trường hợp này. Việc điều trị bệnh chủ yếu là điều trị triệu chứng. Trẻ sốt cao từ 38,5 độ C trở lên thì dùng thuốc hạ sốt.

Nếu ho nhiều, cha mẹ cho con dùng các loại thuốc ho tây y hoặc đông y như mật ong, hoa hồng hấp đường, gừng, chanh... dùng thuốc long đờm, dùng thuốc co mạch, thuốc kháng histamin, rửa mũi khi bé chảy mũi, tắc mũi.

Theo PGS.TS. Nguyễn Tiến Dũng, việc sử dụng kháng sinh không cần thiết còn làm gia tăng các vi khuẩn kháng thuốc. Do đó, khi trẻ bị bệnh mà cần phải dùng kháng sinh sẽ rất khó chữa trị. Có trường hợp phải dùng các loại kháng sinh đắt tiền để tiêm và truyền tĩnh mạch nhưng vẫn thất bại.

PGS. Dũng cũng đưa ra một số lời khuyên về việc dùng kháng sinh cho từng trường hợp như: Những trẻ có triệu chứng nhẹ không có các dấu hiệu nhiễm trùng rõ ràng như sốt cao, họng có mủ, sưng đỏ, thở mệt, khó thở, xét nghiệm máu có bạch cầu tăng, X-quang phổi có tổn thương thì không nên uống kháng sinh.

Trường hợp trẻ bị viêm mũi họng cấp hoặc nhiễm khuẩn đường hô hấp trên cha mẹ không nên dùng kháng sinh. Việc điều trị chủ yếu là giảm các triệu chứng như hạ sốt, ho, sổ mũi và bệnh sẽ tự khỏi sau 3-7 ngày.

“Bệnh hô hấp trên ở trẻ do virus chiếm đa số nên uống kháng sinh không thể cải thiện bệnh mà chỉ làm trẻ mệt thêm. Những trường hợp này dùng kháng sinh có thể làm cho vi khuẩn nhờn thuốc, kháng lại kháng sinh khiến bệnh nặng thêm”, PGS Dũng nói.

Nếu trẻ có biểu hiện viêm họng, viêm amidan cấp do liên cầu thì cần được điều trị đúng và đủ liều kháng sinh để phòng biến chứng đến tim.

Trong trường hợp trẻ bị viêm tai giữa cấp thì cha mẹ nên điều trị triệu chứng. Sau 2 ngày bệnh không đỡ mới dùng kháng sinh.

Thứ Năm, 23 tháng 3, 2017

Bệnh nhi mắc bệnh hô hấp tăng cao tại Sóc Trăng

Bác sĩ Hồng Tuấn Hòa- Phó Giám đốc bệnh viện Sản - Nhi Sóc Trăng cho biết, bệnh hô hấp đang có diễn biến tăng cao ở tỉnh này.

Theo bác sĩ Hồng Tuấn Hòa, trong tháng 1/2017, toàn tỉnh Sóc Trăng có 872 ca điều trị nội trú, trong đó bệnh về hô hấp là 758 ca (chiếm tỷ lệ gần 87%); số ca điều trị ngoại trú là 4.714 ca, trong đó bệnh về hô hấp là 2.119 ca (chiếm tỷ lệ gần 45%).

So với tháng 12/2016 thì số ca bị nhiễm bệnh hô hấp tăng cao hơn. Riêng bệnh sốt xuất huyết là 34 ca, bệnh về tay chân miệng là 22 ca. Điều đáng ghi nhận là tuy tăng về số ca bị bệnh nhưng không bùng phát thành dịch.
Bệnh nhân đang điều trị tại Bệnh viện Sản-Nhi Sóc Trăng.
Trong khi đó, theo số liệu từ Trung tâm y tế dự phòng tỉnh Sóc Trăng, từ đầu năm 2017 đến nay, tỉnh Sóc Trăng có 128 ca mắc bệnh tay chân miệng, tăng 17 ca so với cùng kỳ năm 2016. Địa phương có số ca bệnh tăng cao là huyện Cù Lao Dung (tăng từ 2 ca lên 25 ca) và huyện Mỹ Tú (tăng từ 18 ca lên 34 ca). Các huyện, thị xã như Ngã Năm, Châu Thành, Long Phú và Mỹ Xuyên tăng từ 1 đến 6 ca so với cùng kỳ năm 2016. Chưa có trường hợp nào bệnh nặng dẫn đến nguy cơ tử vong.

Theo bác sĩ Nguyễn Đình Thanh Liêm- Phó Giám đốc Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Sóc Trăng, dự đoán số bệnh nhân mắc bệnh tay chân miệng sẽ tiếp tục gia tăng và tăng cao vào tháng 3, tháng 4. Độ tuổi mắc bệnh tay chân miệng trên địa bàn chủ yếu là trẻ em từ 3-5 tuổi.

Hiện nay, các cơ sở y tế, bệnh viện trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng đang triển khai nhiều giải pháp để chủ động điều trị, ngăn ngừa và kéo giảm số ca mắc bệnh tay chân miệng.

Thứ Tư, 22 tháng 3, 2017

Bệnh tuần hoàn máu kém

Bệnh tuần hoàn máu kém là gì?

Bệnh tuần hoàn máu kém là tổn thương gốc tự do tới hệ tuần hoàn, hiện tượng thiếu hụt các chất dinh dưỡng và các độc tố axit trong cơ thể. Việc hình thành các mảng bám trong các mạch máu khiến cho việc lưu thông máu đến các cơ quan trên cơ thể bị giảm, là nguyên nhân của nhiều bệnh lý.

Nguyên nhân dẫn đến bệnh tuần hoàn máu kém

Nguyên nhân chính của bệnh tuần hoàn máu kém là chủ yếu do việc thiếu hụt các chất dinh dưỡng trong cơ thể, chế độ tập luyện thể thao không đúng cách. Bên cạnh đó việc hút thuốc lá, sử dụng các chất kích thích, cân nặng, bệnh tiểu đường…cũng là những nguyên nhân gây ra bệnh tuần hoàn máu kém.
Ở phụ nữ đang mang thai cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Tuần hoàn máu kém không có biểu hiện rõ ràng, vì vậy gây ra nhiều nguy cơ đối với người bệnh. Bạn có thể nhận biết tình trạng bệnh tuần hoàn máu kém thông qua các dấu hiệu dưới đây.

Bệnh tuần hoàn máu kém có nhiều nguyên nhân

Dấu hiệu và cách điều trị bệnh tuần hoàn máu kém

Bệnh nhân bị bệnh tuần hoàn máu kém thường có những biểu hiện như mệt mỏi, chán ăn, đau đầu, tê nhức chân tay, hay sưng phù các cơ khớp…Ngoài ra bệnh tuần hoàn máu kém còn là một trong những nguyên nhân gây ra những bệnh tim mạch như đột quỵ, xơ vữa động mạch, bệnh tim…

Cách điều trị bệnh tuần hoàn máu kém

Để điều trị bệnh tuần hoàn máu kém trước tiên phải tạo tâm lý thoải mái khi ngủ, không khí thoáng mát, nhiệt độ phòng thích hợp cho giấc ngủ sâu.
Người bị bệnh tuần hoàn máu kém có thể sử dụng các thuốc an thần, dưỡng tâm từ những dược liệu Đông y như cỏ bình vôi, lá vông nem, tâm sen…để dễ đi vào giấc ngủ,cơ thể thoải mái do các mạch được lưu thông, tăng cường khả năng tuần hoàn máu tới các bộ phận trên cơ thể.
Hạn chế các loại thực phẩm có nhiều chất béo, đồ ăn nhanh, đồ chiên nhiều mỡ động vật, các đồ uống có ga có cồn như bia rượu, thuốc lá. Nên ăn nhiều rau xanh, củ quả, trái cây…
Vận động thường xuyên cũng là một liệu pháp giúp tăng cường việc lưu thông máu trong cơ thể, tuy thuộc vào sức khỏe và độ tuổi để lựa chọn chế độ luyện tập phù hợp.
Khi nhận biết dấu hiệu của bệnh tim mạch trên thì phải kịp thời đến bác sĩ chuyên khoa để xét nghiệm y tế và có phương pháp điều trị kịp thời.



Thứ Hai, 20 tháng 3, 2017

Đối đầu với bệnh hô hấp

Hiện nay bệnh không lây nhiễm nói chung và bệnh hô hấp mạn tính không lây nói riêng đang được các Chính phủ của nhiều quốc gia...

Hiện nay bệnh không lây nhiễm nói chung và bệnh hô hấp mạn tính không lây nói riêng đang được các Chính phủ của nhiều quốc gia, các cơ quan y tế trên toàn thế giới dành nhiều sự quan tâm đặc biệt vì tầm ảnh hưởng của nó tới cộng đồng xã hội. Ðể hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta cùng gặp gỡ GS.TS. Ngô Quý Châu, Phó Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, Giám đốc Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai, Chủ tịch Hội Hô hấp Việt Nam, Chủ nhiệm Dự án phòng chống bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) và hen phế quản (HPQ) quốc gia.

Phóng viên (PV): Thưa giáo sư, có thể hiểu các bệnh không lây nhiễm như thế nào?

GS.TS. Ngô Quý Châu: Bệnh không lây nhiễm (BKLN) là bệnh không truyền từ người này sang người khác hoặc từ động vật sang người. Hầu hết bệnh không lây nhiễm là bệnh mạn tính, khó chữa khỏi. Có nhiều loại BKLN khác nhau, tuy nhiên hiện nay Liên hiệp quốc, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tập trung vào 4 nhóm bệnh chính, gồm bệnh tim mạch, đái tháo đường, ung thư, bệnh hô hấp mạn tính (bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và hen phế quản), do những BKLN này ngoài việc có tỷ lệ mắc lớn và là nguyên nhân chủ yếu gây tàn tật và tử vong ở người trưởng thành, chúng còn có chung các yếu tố nguy cơ.
PV: Giáo sư có thể cho biết tình hình mắc các bệnh hô hấp mạn tính không lây hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam ra sao?
GS.TS. Ngô Quý Châu: Các bệnh hô hấp mạn tính không lây bao gồm BPTNMT và bệnh HPQ. Trước hết là BPTNMT, theo WHO (1990), BPTNMT là nguyên nhân gây tử vong xếp hàng thứ 5 với 2,2 triệu người chết. Theo dự đoán của WHO, số người mắc bệnh sẽ tăng 3-4 lần trong thập kỷ này, gây ra 2,9 triệu người chết mỗi năm và đến năm 2020 BPTNMT sẽ là nguyên nhân gây chết đứng hàng thứ 3. Tùy theo từng nước, tỷ lệ tử vong từ 10 - 500/100.000 dân với khoảng 6% nam và 2- 4% nữ vì BPTNMT. Tại Việt Nam, theo Nguyễn Thị Xuyên và cộng sự (2009), tỷ lệ mắc BPTNMT nói chung, trên đối tượng có tuổi từ 40 trở lên là 4,2%, trong đó tỷ lệ mắc bệnh ở nam giới là 7,1% và nữ giới là 1,9%.
Về bệnh HPQ, các nghiên cứu dịch tễ học cũng cho thấy tỷ lệ mắc bệnh có sự khác biệt rõ rệt giữa các khu vực trên thế giới, với độ lưu hành luôn rất cao ở các nước phát triển (≥ 10%) và đang có xu hướng tăng lên liên tục ở các nước đang phát triển, khi lối sống phương Tây trở nên phổ biến. Nghiên cứu Thực trạng hen phế quản ở Việt Nam năm 2010 - 2011 của Trần Thúy Hạnh, Nguyễn Văn Đoàn và cộng sự, kết quả khảo sát 19.461 đối tượng phát hiện có 751 người mắc hen thuộc tất cả các nhóm tuổi, chiếm tỷ lệ 3,9%, tỷ lệ này khá thấp so với độ lưu hành hen ở nhiều nước phát triển.
PV: Giáo sư có thể cho biết trong tương lai xu hướng mắc và tử vong của các bệnh hô hấp mạn tính không lây diễn biến thế nào?
GS.TS. Ngô Quý Châu: Đối với BPTNMT theo Chương trình phòng chống bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính toàn cầu (GOLD), BPTNMT là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Theo ước tính trong số 10 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu thế giới năm 1990, đến năm 2020 chỉ có tỷ lệ tử vong do BPTNMT, tai nạn giao thông và ung thư phổi là tiếp tục gia tăng và tiếp tục nằm trong 10 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu (trong đó tỷ lệ tử vong do BPTNMT từ vị trí thứ 6 năm 1990 tăng lên chiếm vị trí thứ 3 vào năm 2020), các nguyên nhân gây tử vong khác đều có xu hướng ổn định hoặc giảm dần. Nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ tử vong do BPTNMT là do tỷ lệ hút thuốc cao và sự già hóa dân số. Tại Việt Nam, theo số lượng tử vong ước tính năm 2008 thì căn nguyên BPTNMT gây tử vong đứng hàng thứ 5 ở nam giới, trong khi đó tử vong do BPTNMT đứng hàng thứ 2 ở nữ giới, chỉ đứng sau căn nguyên đột quỵ.
Còn bệnh HPQ mỗi năm trên thế giới có khoảng 180.000 đến 250.000 trường hợp tử vong do hen, trung bình cứ 250 người tử vong thì có một trường hợp là do HPQ, đa số bệnh nhân HPQ có thể tránh được tử vong nếu được kiểm soát tốt. Mặc dù tỷ lệ tử vong do hen dao động đáng kể giữa các khu vực, nhưng tính chung trên toàn thế giới, tỷ lệ tử vong đang có xu hướng giảm dần từ những năm 1980 đến nay. Điều này có thể liên quan đến những tiến bộ to lớn trong chẩn đoán và điều trị hen, đặc biệt là việc áp dụng các hướng dẫn chẩn đoán và điều trị HPQ của Hiệp hội Hen toàn cầu cũng như việc sử dụng rộng rãi corticosteroid dạng xịt. Ở khu vực Đông Nam Á, tỷ lệ tử vong do hen cũng có xu hướng giảm dần trong những thập kỷ gần đây ở nhiều quốc gia.
GS. TS Ngô Quý Châu đang thăm khám cho bệnh nhân COPD.
PV: Trước tình hình bệnh hô hấp mạn tính không lây trên, chúng ta đã có những giải pháp ứng phó nào, thưa giáo sư?
GS.TS. Ngô Quý Châu: Trước thực trạng trên, Thủ Tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2331/QĐ-TTg, ngày 20/12/2010 ban hành Danh mục các Chương trình mục tiêu Quốc gia năm 2011, trong đó có nội dung phòng chống BPTNMT và HPQ. Sau đó ngày 2/3/2011, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký Quyết định số 595/QĐ-BYT về việc Phê duyệt kế hoạch hoạt động năm 2011 của Dự án phòng chống BPTNMT và HPQ. Hiện nay, chương trình mục tiêu này đã được Chính phủ phê duyệt cho tiếp tục thực hiện, là một chương trình trong dự án dân số y tế giai đoạn 2016-2020.
Tóm lại, gánh nặng bệnh tật do BPTNMT và HPQ gây ra cho xã hội là rất lớn, đặc biệt trong điều kiện của nước ta hiện nay do thiếu thiết bị, thiếu nguồn nhân lực, thiếu thuốc men cấp phát theo chương trình của Bảo hiểm y tế... Rất mong Chính phủ và Bộ Y tế cùng các ban ngành và toàn xã hội sẽ tiếp tục quan tâm và chỉ đạo sát sao, hỗ trợ nguồn lực giúp cho công cuộc phòng chống bệnh không lây nhiễm nói chung và bệnh hô hấp mạn tính không lây nói riêng đạt được thành tựu to lớn hơn nữa, góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống, kéo dài tuổi thọ, tiến tới giảm tần suất mắc các bệnh nguy hiểm này cho nhân dân.

Thứ Hai, 13 tháng 3, 2017

Sai lầm khiến trẻ dễ mắc bệnh hô hấp

Trẻ dưới 5 tuổi có thể viêm đường hô hấp cấp 4-6 lần mỗi năm nếu cha mẹ không biết cách giữ ấm cho con, tự chữa trị hoặc uống thuốc sai liệu trình...

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hàng năm có hơn một triệu trẻ em tử vong vì viêm phổi. Một đứa bé dưới 5 tuổi có thể viêm đường hô hấp cấp 4-6 lần mỗi năm, làm ảnh hưởng đến công việc của nhiều bậc phụ huynh.

Tiến sĩ, bác sĩ Trần Anh Tuấn - Trưởng khoa hô hấp, Bệnh viện Nhi đồng 1 TP HCM, Phó chủ tịch Hội Hô hấp TP HCM cho biết: "Mùa bệnh viêm phổi năm nay ghi nhận nhiều trẻ nhỏ dưới 6 tháng tuổi, thậm chí mới 2-3 tháng tuổi phải nhập viện vì viêm phổi nặng. Thông thường, đây là nhóm trẻ vẫn còn miễn dịch từ mẹ nên ít mắc bệnh, nhưng gần đây, các trẻ này cũng bị tấn công bởi virus, vi khuẩn".

"Sai lầm lớn nhất của các gia đình là chủ quan, trong khi bệnh ở trẻ nhỏ diễn biến rất nhanh. Có bé chỉ trong vài giờ đã trở nặng, thậm chí phải thở máy”, bác sĩ Tuấn lưu ý. Ví dụ như trường hợp bệnh nhi 3 tháng tuổi mới đây, chị Yến - mẹ của bé lúc đầu thấy con có nước mũi trong, nghẹt mũi, sau đó sốt nóng, bỏ bú, nhưng chỉ hơn một ngày đã khó thở. Bác sĩ phải cho bé nhập viện ngay vì viêm phổi.
Trẻ nhỏ miễn dịch kém, nên dễ mắc các bệnh đường hô hấp.
Bà ngoại của một bé trai 9 tháng tuổi khác cũng cho biết: "Cháu chỉ ho húng hắng, chảy nước mũi, khó thở như ngạt mũi thôi, không sốt và ăn uống bình thường. Gia đình tự mua kháng sinh và thuốc ho cho uống. Nhưng sau 2 ngày, cháu đã mệt li bì, thở khó khăn hơn nên mới đưa vào viện. Bác sĩ chẩn đoán cháu suy hô hấp do viêm phổi".

Bác sĩ Tuấn khuyến cáo, cần cặp sốt cho trẻ để biết chính xác diễn biến nhiệt độ cơ thể, chứ không nên đặt tay lên trán để đo nhiệt độ. Khởi đầu, bé có thể chỉ sốt, chảy nước mũi, song cần theo sát để nhận biết tình trạng bệnh nặng lên, đặc biệt là lưu ý nhịp thở. Viêm phổi không ho nhiều nhưng trẻ mệt, thở nhanh. Trẻ nặng sẽ thở lõm lồng ngực, thậm chí tím tái.

Mùa xuân trời trở lạnh, cha mẹ cần lưu ý giữ ấm cho trẻ bằng cách mặc đủ ấm, phù hợp với nhiệt độ bên ngoài. Nên mặc thêm áo, mũ len, mang bao tay, vớ, khăn…, nhất là khi cần đưa trẻ ra ngoài. Tiêm chủng mở rộng lẫn tự nguyện (cúm, phế cầu) là cách hiệu quả bảo vệ trẻ khỏi các bệnh hô hấp nặng nề.

Rửa tay cũng là biện pháp hữu hiệu để phòng các bệnh hô hấp nói chung, đặc biệt là viêm tiểu phế quản và viêm phổi, vì chúng có thể lây qua bàn tay nhiễm bẩn. Trẻ cũng cần tránh tiếp xúc với người lớn hay trẻ ốm khác, dù chỉ là cảm ho thông thường. Khi bệnh vào mùa, nên tránh đưa trẻ đến nơi đông người nếu không cần thiết.
Khi thầy thuốc chỉ định, cha mẹ cần nhận biết đúng dạng thuốc, liều lượng, số lần trong ngày và số ngày cần cho trẻ uống. 
Bác sĩ Tuấn lưu ý, mọi trẻ viêm phổi phải được thầy thuốc thăm khám, điều trị, theo dõi cẩn thận để tránh hậu quả xấu. Bên cạnh các biện pháp chăm sóc thông thường, cần điều trị kháng sinh thích hợp để giúp trẻ khỏi bệnh. Theo WHO, nếu phát hiện và điều trị sớm bằng kháng sinh phù hợp, kết quả điều trị sẽ khả quan. Khoảng 70-80% các trường hợp viêm phổi không nặng sẽ được chữa khỏi tại nhà bằng kháng sinh đường uống, không đắt tiền.

Khi thầy thuốc chỉ định, cha mẹ cần nhận biết đúng dạng thuốc, liều lượng, số lần trong ngày và số ngày cần cho trẻ uống. Không được tự ý ngưng thuốc dù trẻ có vẻ bớt bệnh hơn. Liệu trình điều trị trung bình cho viêm phổi là 7-10 ngày.

Tuy nhiên, việc cho trẻ uống thuốc dài ngày, nhiều lần trong ngày không hề dễ dàng với các bậc phụ huynh. Có thể điều trị kháng sinh ngắn ngày, song cần lưu ý không phải trẻ nào, bệnh nào và thuốc kháng sinh gì cũng có thể áp dụng. Chỉ có bác sĩ điều trị mới giúp cha mẹ chọn lựa biện pháp điều trị phù hợp nhất với trẻ

Thứ Ba, 7 tháng 3, 2017

Các vi sinh vật và nấm mốc, với những thay đổi thất thường của thời tiết trên khắp cả nước về nhiệt độ, độ ẩm, v.v, đang phát triển mạnh trong môi trường. Điều này đang kéo theo tỉ lệ mắc bệnh, nhất là bệnh đường hô hấp, ở trẻ em tăng cao.

Cẩn trọng khi trẻ mắc bệnh về đường hô hấp


Các mẹ đã được các bác sĩ của Hội Hô hấp Thành phố cung cấp các kiến thức bổ ích và tận tình tư vấn về chăm sóc đường hô hấp của trẻ. Đặc biệt, ngày hội có sự tham gia của PGS.TS.BS. Trần Văn Ngọc – Chủ tịch Hội Hô Hấp TPHCM, Trưởng khoa Hô hấp BV Chợ Rẫy, TS. BS. Trần Anh Tuấn – Phó Chủ tịch Hội Hô Hấp TPHCM, Trưởng khoa hô hấp Bệnh viện Nhi Đồng 1 và PGS.TS.BS Phạm Thị Minh Hồng - Phó Chủ nhiệm bộ môn Nhi, BS điều trị khoa hô hấp, BV Nhi Đồng 2.

Tại ngày hội, BS Minh Hồng và BS Anh Tuấn, các báo cáo viên chính, đã trình bày những thông tin cực kỳ bổ ích về việc chăm sóc sức khỏe trẻ nhỏ. Qua phần trình bày của các bác sĩ, các bà mẹ đã hiểu được đường hô hấp chính là nơi mà nhiều mầm bệnh (vi rút, vi khuẩn) dễ dàng xâm nhập khi trẻ hít thở. Đối với trẻ, đường thở ngắn và hẹp nên mầm bệnh dễ xâm nhập đến đường hô hấp dưới và có thể gây viêm phổi cũng như dễ làm bệnh nặng hơn. Đặc biệt là trẻ dưới 5 tuổi, bệnh đường hô hấp thường xuyên tấn công do hệ miễn dịch chưa hoàn chỉnh nên sức đề kháng và khả năng miễn dịch kém.
Chia sẻ cùng các bác sĩ tại ngày hội, mẹ Trần Xuân Anh, Quận 7 cho biết: “Từ khi cai sữa mẹ, con mình không biết bao nhiêu lần ốm vặt. Khi thì sổ mũi, khi thì đau họng. Có những đêm cả hai vợ chồng phải thay nhau thức chăm con chỉ vì thằng bé ho cả đêm, không ngủ được rồi quấy khóc. Tuy đã đi bác sĩ và được bác cho thuốc nhưng những việc cần thiết để chăm sóc con mà bác đã dặn mình lại không làm theo hết được nên con cứ ho suốt”.

Ở lứa tuổi nhỏ, so với lứa tuổi lớn và người trưởng thành, trẻ dễ mắc các bệnh về đường hô hấp trong giai đoạn chuyển mùa và bệnh cũng dễ trở nặng hơn. Ví dụ, khi bị nhiễm cùng một loại vi rút hô hấp (vi rút hô hấp hợp bào), triệu chứng bệnh của trẻ nhỏ và người lớn chỉ dừng ở mức ho, cảm thông thường, nhưng của trẻ nhỏ lại nặng hơn: hơn 90% trẻ dưới 2 tuổi sẽ bị viêm tiểu phế quản, nguyên nhân nhập viện hàng đầu ở trẻ nhỏ.

Trần Anh Tuấn – Phó Chủ tịch Hội Hô Hấp TPHCM, Trưởng khoa hô hấp Bệnh viện Nhi Đồng 1 cho biết: “Đặc biệt ở các trẻ có bệnh mạn tính, dị tật đường hô hấp bẩm sinh, bệnh tim bẩm sinh, bại não, suy dinh dưỡng nặng, suy giảm miễn dịch,… thì bệnh lại càng nặng, nhiều biến chứng và dễ tử vong hơn.

Bác sĩ nhắc nhở mẹ nên lưu ý liệu trình điều trị


Bác sĩ Trần Anh Tuấn lưu ý với các bà mẹ: “Khi thấy trẻ mắc bệnh hô hấp như sốt cao, thở gấp, bỏ bú kéo dài thì cần đưa đến cơ sở y tế gần nhất để được khám và có hướng xử trí kịp thời, tránh tự ý điều trị”.
Bác sĩ Trần Anh Tuấn trấn an các bà mẹ rằng: “Nếu được đưa đến cơ sở y tế sớm, xử trí kịp thời thì kết quả sẽ rất khả quan: 70-80% trẻ VP có thể khỏi bệnh với những loại thuốc kháng sinh thông thường để chủ động phòng bệnh, các bậc phụ huynh cần tuân thủ nguyên tắc là tiêm phòng đầy đủ, cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho trẻ, giữ ấm cho trẻ cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong ít nhất 6 tháng đầu, nuôi dưỡng trẻ tốt – tránh suy dinh dưỡng, tránh ô nhiễm – khói bụi đặc biệt là khói thuốc lá và khói bếp (than củi), chủng ngừa đầy đủ cũng như thực hành tốt việc rửa tay.

Ngoài ra, các mẹ cần tuân thủ đúng liệu trình điều trị của bác sĩ vì hiện có 2 loại kháng sinh, liệu 5 ngày hoặc 7 ngày để việc điều trị hiệu quả


Các bác sĩ tại bàn tư vấn cũng nhấn mạnh rằng “Cần lưu ý là không phải bệnh nào, người bệnh nào, kháng sinh nào cũng có thể áp dụng biện pháp này. Chỉ qua thăm khám và đánh giá đầy đủ, bác sĩ của bạn mới quyết định được điều này”.

Việc tuân thủ liệu trình điều trị là một trong những nhân tố chính giúp cho quá trình hồi phục của trẻ được nhanh chóng. Vì thế, bố mẹ cần sớm chia sẻ với bác sĩ điều trị nếu liệu trình không được tuân thủ do các lý do khách quan để có giải pháp phù hợp cho việc chăm sóc trẻ.

Thứ Hai, 27 tháng 2, 2017

Những người dễ mắc bệnh hô hấp khi đến mùa mưa

Thời tiết chuyển từ nắng sang mưa dễ gây bệnh cảm cúm, ho đàm, nhiễm trùng hô hấp trên, viêm họng, viêm thanh quản, viêm phế quản, viêm phổi... cho mọi lứa tuổi.


Thạc sĩ, bác sĩ Hoàng Đình Hữu Hạnh, Trung tâm chăm sóc Hô hấp, Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM cho biết khi thời tiết thay đổi chuyển từ mùa nắng sang mùa mưa tạo điều kiện cho vi trùng, virus sinh trưởng mạnh, dễ tấn công vào hệ hô hấp của con người.

Với kiểu thời tiết này, người khỏe mạnh cũng dễ bị cảm sốt, nhức mỏi, ho đàm... Đặc biệt ai đang bị bệnh mãn tính về hô hấp sẽ dễ bị các bệnh như nhiễm trùng hô hấp trên, viêm họng, viêm thanh quản, viêm phế quản, viêm phổi.

Bác sĩ Hạnh khuyến cáo những người dễ mắc các bệnh về hô hấp gồm:

- Trẻ nhỏ hệ miễn dịch chưa hoàn chỉnh dễ bị virus, vi khuẩn tấn công gây ra các bệnh về hô hấp.

- Người lớn tuổi với hệ miễn dịch đã suy yếu, khi chuyển mùa cơ thể vừa phải thích ứng với thay đổi của thời tiết, vừa phải chống đỡ các virus và vi khuẩn nên dễ dẫn đến nhiễm bệnh.

- Phụ nữ có thai cũng có hệ miễn dịch suy yếu, dễ mắc bệnh khi thời tiết thay đổi.

- Người dân sống ở vùng ô nhiễm, khu công nghiệp, vùng núi cao, vùng ở trên cao không khí lạnh cũng là đối tượng nguy cơ cao bị các bệnh trên.

Để phòng tránh các bệnh trên, bác sĩ khuyên ngay từ giai đoạn giao mùa, mọi người cần có những biện pháp tăng cường hệ miễn dịch. Cụ thể:

- Tiêm ngừa cảm cúm một năm 2 lần. Lần thứ nhất vào tháng 3 đến 4 để phòng ngừa cảm cúm mùa mưa. Lần thứ hai từ tháng 9 đến 10 để ngừa cảm mùa lạnh.

- Tiêm ngừa viêm phổi.

- Khẩu phần ăn giàu vitamin, trái cây, các loại rau xanh, hải sản…

- Lưu ý giữ ấm để cơ thể không bị cảm lạnh. Những bệnh nhân bị viêm nặng như viêm phế quản hay phổi, cần phải đến bác sĩ khám để được chẩn đoán đúng và uống thuốc phù hợp với từng trường hợp.

Thứ Ba, 21 tháng 2, 2017

Các bệnh hô hấp thường gặp.

Phổi là bô phận chính của bộ máy hô hấp thực hiện chức năng trao đổi khí. Bên cạnh việc cung cấp đầy đủ ôxy cần thiết cho cơ thể, phổi còn giúp thải khí cacbonic- loại khí độc không tốt cho sức khỏe. Tuy nhiên, do ô nhiễm môi trường nên khi ta hít Oxy cũng kèm theo bụi, vi khuẩn,… Dưới đây là

1. Các bệnh hô hấp thường gặp


Các bệnh hô hấp thường gặp bao gồm: viêm phế quản cấp, viêm phổi do các loại vi khuẩn, virus; hen phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, ung thư phổi, tràn dịch màng phổi, lao phổi. Các bệnh này chiếm khoảng 80% số các bệnh lý hô hấp, bên cạnh đó, còn nhiều bệnh hô hấp khác, tuy nhiên chỉ chiếm tỷ lệ ít hơn, như: giãn phế quản, viêm phổi kẽ, bụi phổi, các biểu hiện phổi trong các bệnh hệ thống, nội tiết, cơ xương khớp, thận…
Viêm phế quản cấp là bệnh rất thường gặp ở Việt Nam, hầu như bất cứ người nào cũng đều đã một hoặc nhiều lần bị viêm phế quản cấp, bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ dưới 3 tuổi hoặc người già, những người có bệnh mũi, xoang hoặc khuyết tật về phổi…
Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng cũng là một trong những nhiễm trùng hô hấp rất thường gặp, hàng năm tại Hoa Kỳ có từ 2-3 triệu bệnh nhân mắc viêm phổi nhập viện điều trị, tại Khoa hô hấp Bệnh viện Bạch Mai, khoảng 12% các bệnh nhân nhập viện điều trị vì viêm phổi. Hầu hết các bệnh nhân viêm phổi được chữa khỏi hoàn toàn, một số bệnh nhân có thể tiến triển thành áp xe phổi, hoặc tràn mủ màng phổi, một số ít bệnh nhân có thể tiến triển thành hội chứng suy hô hấp cấp tính, nhiễm khuẩn huyết và có thể tử vong. Ngày càng có nhiều loại virus có khả năng gây nhiễm trùng đường hô hấp, với độc lực cao như virus cúm A H5N1… Viêm phổi do virus có thể lây lan nhanh thành dịch lớn như viêm phổi do virus SARS, virus cúm A H1N1…
Do tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, do vậy, bệnh hô hấp ngày càng phổ biến. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) (1990) bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là nguyên nhân gây tử vong xếp hàng thứ 5 với 2,2 triệu người chết. Tính đến năm 1997 có khoảng 300 triệu người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và là nguyên nhân tử vong xếp hàng thứ 4. Theo dự đoán của WHO số người mắc bệnh sẽ tăng 3-4 lần trong thập kỷ này, gây ra 2,9 triệu người chết mỗi năm và đến năm 2020 bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính sẽ là nguyên nhân gây chết đứng hàng thứ 3. Ở nước ta, theo các nghiên cứu về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính gần đây cho thấy, tỷ lệ mắc bệnh thay đổi theo từng vùng, nhìn chung vào khoảng 2 – 5,7%. Những thống kê về tỷ lệ bệnh nhân điều trị tại bệnh viện cho thấy, cứ 4 bệnh nhân nhập viện tại các khoa bệnh phổi thì có 1 bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
 

Tình  trạng ô nhiễm môi trường làm gia tăng các bệnh hô hấp
Hen phế quản là bệnh gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tất cả các lứa tuổi trên toàn thế giới. Bệnh gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống hàng ngày khi tình trạng bệnh không được kiểm soát. Bệnh nhân có thể xuất hiện cơn bùng phát nặng có thể gây tử vong ở bất cứ thời điểm nào khi tiếp xúc với dị nguyên, ngay cả khi bệnh đã hoàn toàn được kiểm soát.
Thế giới hiện có khoảng 300 triệu người mắc hen phế quản, và khoảng 250.000 trường hợp tử vong vì hen phế quản mỗi năm. Tỷ lệ mắc hen phế quản ước tính khoảng 6-8% ở người lớn và khoảng 10-12% ở trẻ em dưới 15 tuổi. Ở Việt Nam, các nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ mắc hen phế quản dao động từ 1,1% ở Đà Lạt cho tới cao nhất là 5,5% ở cư dân một số khu vực Hà Nội.
Ung thư phổi là loại ung thư gây tử vong hàng đầu ở hầu hết các nước trên thế giới. Nam mắc bệnh nhiều hơn nữ (tỷ lệ 5 nam/ 1 nữ), bên cạnh đó, hầu hết các bệnh nhân ung thư phổi được phát hiện ở giai đoạn muộn, không còn chỉ định phẫu thuật (60-80%), do vậy, thời gian từ khi được phát hiện đến khi tử vong ngắn, tỷ lệ sống sau 5 năm chỉ dưới 15%.
Lao phổi hiện nay có tần xuất cao ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Lao có thể gây các tổn thương đa dạng ở đường hô hấp từ lao thanh quản xuống khí phế quản, nhu mô phổi, màng phổi. Nguy cơ các vi khuẩn lao kháng thuốc và lao đa kháng thuốc ngày một nhiều. Đây là một vấn đề sức khỏe cộng đồng cần được quan tâm nhiều hơn nữa.

2. Triệu chứng

Hầu hết các bệnh lý hô hấp đều có biểu hiện ho, khạc đờm, đau ngực hoặc khó thở, tùy theo từng bệnh lý cụ thể, mà các triệu chứng có thể có những biểu hiện, diễn biến khác nhau, chẳng hạn, bệnh nhân viêm phế quản cấp, viêm phổi thường có các triệu chứng diễn biến cấp tính, trong thời gian ngắn, với các triệu chứng như: sốt, ho, khạc đờm mủ… Hen phế quản thường hay gặp ở người trẻ tuổi, các biểu hiện ho, khó thở thường xuất hiện khi bệnh nhân tiếp xúc dị nguyên hoặc thay đổi thời tiết, trong cơn khó thở thường nghe thấy tiếng cò cử, tuy nhiên, ngoài cơn bệnh nhân lại hoàn toàn bình thường. Các bệnh nhân giãn phế quản thường có ho, khó thở xuất hiện nhiều năm, tuy nhiên, bệnh nhân thường có ho, khạc đờm nhiều, có thể có từng đợt ho máu…
Bên cạnh các triệu chứng bệnh lý tại đường hô hấp, nhiều bệnh nhân có bệnh lý hô hấp lại có biểu hiện toàn thân như sốt, gầy sút; biểu hiện ở các cơ quan, bộ phận khác, sau đó mới được phát hiện các bệnh hô hấp, chẳng hạn bệnh nhân ung thư phổi có thể có biểu hiện ban đầu là đau xương, khớp, ngón tay sưng to, hoặc đôi khi bệnh nhân đi khám vì đau đầu, liệt nửa người…
Trên đây là Các bệnh hô hấp thường gặp. Bạn có thể căn cứ vào đây có cách phòng tránh bệnh cho mình. Đồng thời, khi có dấu hiệu của bệnh lý này, bạn nên đi khám tìm rõ nguyên nhân để có phương pháp điều trị đúng.
Chúc bạn luôn khỏe mạnh!

Thứ Năm, 16 tháng 2, 2017

10 cách chữa ngạt mũi hiệu quả nhất trong mùa đông

Cùng theo dõi bài viết sau để tham khảo 10 cách chữa ngạt mũi hiệu quả nhất cho mùa hanh khô bởi đây là bệnh hô hấp thường xảy ra khi tiết trời thay đổi vào mùa hanh khô...

10 cách chữa ngạt mũi hiệu quả

1. Uống trà gừng

Các thầy lang thường sử dụng củ gừng để điều trị cảm lạnh và những triệu chứng của nó, bao gồm cả ngạt mũi và sung huyết phổi.

Cách chữa ngạt mũi hiệu quả nhất
Cách chữa ngạt mũi hiệu quả trong mùa đông bằng trà gừng như sau: cứ mỗi củ gừng tươi thì đổ 2 cốc nước vào và đun sôi khoảng 10 phút. Sau đó vớt bã gừng ra, bỏ thêm đường và chút mật ong vào nước trà, cho thêm chút nước chanh càng tốt. Cứ 2 – 3 tiếng lại uống một cốc cho đến khi nước mũi chảy ra nhiều và hết ngạt mũi.

2. Nhỏ nước muối

Đây là cách chữa ngạt mũi hiệu quả trong mùa đông rất đơn giản, dễ làm và được nhiều người sử dụng. Bạn có thể mua lọ nước muối sinh lý ở hiệu thuốc hoặc có thể tự chế. Cách chế biến như sau: Lấy 1 muỗng muối bỏ vào một cốc nước đun sôi để nguội, hoà tan. Sau đó đổ vào ống nhỏ giọt hoặc ống xịt và nhỏ lên 2 lỗ mũi.

Có thể nhỏ nhiều lần trong một ngày. Nước muối sẽ giúp chống khuẩn, làm lãng nước mũi đặc và thông mũi nhanh chóng. Cách này đặc biệt an toàn ngay cả đối với trẻ mới sinh được 6 tuần tuổi.

3. Tinh dầu khuynh diệp

Dầu khuynh diệp (bạch đàn), được bán phổ biến ở các hiệu thuốc, có khả năng chống tức ngực và làm thông lỗ mũi khi bị ngạt mũi bằng cách hít thật sâu loại dầu này. Và nhớ rằng hãy hít thở thật sâu trong lúc tắm để nhận được hiệu quả tốt nhất.

4. Ăn gia vị cay nóng

Nếu bạn ăn được cay, thì đây cũng là cách chữa ngạt mũi hiệu quả, nhất là trong mùa đông. Những thực phẩm cay nóng như ớt, hạt tiêu, mù tạc… sẽ làm chảy nước mũi. Điều này giúp loại bỏ vi khuẩn và làm dịu triệu chứng ngạt mũi.

5. Uống nhiều nước

Nước là thứ tốt nhất để chống sự khử nước của cơ thể. Khi vào cơ thể, nước sẽ làm loãng các nước nhầy của mũi và tăng cường khả năng phục hồi khi bị cảm cúm. Mỗi ngày bạn nên uống 8 – 10 cốc nước, đặc biệt là nước nóng càng tốt.

6. Nước chanh pha với mật ong

Cách chữa ngạt mũi trong mùa đông hiệu quả bằng nước chanh tại nhà như sau: lấy một thìa mật ong và vài giọt chanh tươi bỏ vào một cốc nước ấm. Khuấy đều và uống mỗi ngày 3 cốc. Mật ong sẽ nhanh chóng loại bỏ tắc mũi và chống ho hiệu quả.

7. Chườm khăn nước nóng lên tai

Đây là mẹo mà nhiều người thường sử dụng để chữa ngạt mũi hiệu quả và nhanh nhất trong mùa đông. Trước khi đi ngủ, bạn lấy khăn thấm nước nóng đặt ở hai tai trong vòng khoảng 10 – 15 phút. Nó sẽ làm chứng ngạt mũi dịu đi.

8. Xông nước muối

Lấy một bát nước nóng và bỏ 2 thìa muối vào, kề mũi gần bát và hít hơi nước bốc lên. Hơi nước muối sẽ giúp thông mũi và đẩy nước mũi nhầy ra ngoài.

9. Ăn súp thịt gà

Từ lâu, nhiều nước trên thế giới thường ăn súp gà để trị cảm cúm. Nhưng các nhà khoa học còn phát hiện chúng còn có là cách chữa ngạt mũi cực kì hiệu quả, nhất là trong mùa đông. Nếu cho thêm ít tỏi và ớt cộng thêm ít nước chanh thì càng tăng thêm hương vị và chống bệnh hiệu nghiệm.

10. Mát-xa mũi

Lấy ngón cái và ngón trỏ hoặc hai nhón trỏ vuốt nhẹ nhàng lên sống mũi. Thực hiện như vậy nhiều lần trong ngày cho đến khi bạn có thể thở dễ dàng.

Trên đây là 10 cách chữa ngạt mũi hiệu quả bạn có thể áp dụng để ngăn chặn tình trạng ngạt mũi kéo dài. Chúc bạn luôn khỏe mạnh!

Chủ Nhật, 12 tháng 2, 2017

Những cách chữa cảm cúm tại nhà hiệu quả và đơn giản

Khi thời tiết thay đổi hoặc vào thời điểm giao mùa bạn rất dễ bị cảm cúm. Vì thế nên người ta hay gọi bệnh cảm cúm là “bệnh thời tiết”. Vậy có cách chữa cảm cúm tại nhà nào vừa đơn giản vừa hiệu quả, giúp bạn đối phó với nó mỗi khi thời tiết trở trời không.

Căn bệnh này là căn bệnh thường gặp nhất khi giao mùa. Tuy không quá ảnh hưởng đến sức khỏe của mọi người nhưng nó lại gây cho người bệnh cảm giác khó chịu. Triệu chứng cảm cúm thường gặp là đau họng, chảy nước mắt, nước mũi, hắt hơi và mệt mỏi. 

Khi bị cảm bạn thường nghĩ ngay đến việc dùng thuốc để chữa bệnh. Có rất nhiều cách để chữa cảm cúm tại nhà mà bạn không cần dùng thuốc. Bằng những mẹo sau đây, những cơn cảm cúm của bạn sẽ được chấm dứt nhanh chóng.

Những cách chữa cảm cúm tại nhà đơn giản

Súc miệng bằng nước muối


Chữa cảm cúm tại nhà bằng cách xúc miệng nước muối 
Súc miệng bằng nước muối không chỉ làm sạch răng miệng, giúp hơi thở thơm mát mà còn ngăn ngừa nhiễm trùng, điều trị viêm họng.

Cách chữa cảm cúm tại nhà này rất đơn giản, hàng ngày bạn chỉ cần pha 1 cốc nước muối đặc (2 thìa muối/1 cốc) sau đó súc miệng nhiều lần trong ngày, tuy nhiên không nên súc miệng trong nhà bếp để tránh gây nhiễm khuẩn cho các thực phẩm khác.

Cung cấp thêm vitamin C

Vitamin C cũng là ”liều thuốc” chữa cảm cúm tại nhà rất hiệu quả. Đặc biệt khi hệ miễn dịch đang suy yếu thì việc bổ sung thêm nhiều vitamin C là điều cần thiết.
Khi bị cảm cúm, có thể cơ thể sẽ không muốn ăn thức ăn gì, vì vậy nếu không ăn được cam, chanh, bưởi,… bạn nên mua viên uống vitamin C để đẩy lùi căn bệnh thường gặp này.

Nghỉ ngơi thật nhiều

Để chữa cảm cúm tại nhà nhanh và hiệu quả nhất đó là giấc ngủ. Nếu bị chứng cảm cúm tìm đến, hãy dành thời gian để cơ thể nghỉ ngơi, điều hòa lại các cơ quan. Dành cho mình chút thời gian nghỉ không chỉ để đánh bay cơn cảm cúm, nó còn giúp bạn lấy lại tinh thần để tiếp tục công việc.

Xông hơi

Xông hơi cũng là cách chữa cảm cúm tại nhà hiệu quả mà không cần dùng đến thuốc. Do virus không thể hoạt động trong môi trường ẩm nên việc xông hơi tại nhà cũng sẽ giúp bạn đẩy lùi được những chứng hắt hơi, sổ mũi, mệt mỏi. Không những vậy xông hơi còn có tác dụng điều hòa khí huyết giúp cơ thể thư giãn rất hiệu quả.

Rửa tay sạch với xà phòng

Khi bị cảm cúm, chức năng của hệ miễn dịch suy yếu nghiêm trọng, việc rửa tay thường xuyên và sạch sẽ sẽ giúp ngăn ngừa các virut mới xâm nhập vào cơ thể. Chú ý rửa sạch tay trước và sau khi ăn kể cả lúc không bị cúm nhé!

Uống thật nhiều nước

Uống nhiều nước


Mỗi khi bị cảm cúm bạn nên uống thật nhiều nước (nước hoa quả, nước canh, súp hay nước lọc), điều này sẽ giúp khơi thông chiếc mũi đang bị tắc nghẽn do cảm cúm. Tuy nhiên nước là thành phần không thể thiếu của cơ thể, cho dù bị cúm hay không thì bạn vẫn nên bổ sung đủ 2l nước/ngày để đảm bảo sức khỏe.

Nếu bị cảm cúm nên ăn tỏi tươi

Tỏi có tính ôn, có tác dụng giải độc, tiêu đờm, sát trùng rất tốt. Đây cũng là cách chữa cảm cúm tại nhà cực hiệu quả mà không cần dùng thuốc. Khi bị cúm, hãy ăn nhánh tỏi tươi hoặc thêm vào món ăn khi chế biến đều được (tuy nhiên ăn sống sẽ tốt hơn).

Tác dụng của tỏi tươi để chữa cảm cúm

Trên đây là những cách chữa cảm cúm tại nhà vừa đơn giản vừa hiệu quả cho các bạn tham khảo. Hy vọng với những cách chữa cảm cúm đơn giản trên đây, các bạn không còn phải lo về căn bệnh thời tiết này nữa. Chúc các bạn khỏe mạnh.

Thứ Sáu, 3 tháng 2, 2017

Những loại thuốc điều trị hen phế quản tại nhà

Hen phế quản có thể do dị ứng (bụi, phấn hoa, lông vũ, thực phẩm) hoặc không do dị ứng (nhiễm khuẩn, rối loạn nội tiết, gắng sức, dùng thuốc chống viêm không steroid) ở người hen do dị ứng, khi tiếp xúc với dị nguyên, rất nhiều chất trung gian hóa học được giải phóng từ dưỡng bào, gây nhiều tác dụng ở phế quản và các nơi khác trong cơ thể.

Thuốc điều trị hen phế quản

Nhóm thuốc cắt cơn hen suyễn

Tác dụng

Giảm co thắt phế quản, hoặc tắc nghẽn đường dẫn khí có hồi phục, đồng thời giúp ngăn ngừa cơn co thắt phế quản do gắng sức hay trước khi tiếp xúc với dị nguyên đã biết trước nhưng không tránh khỏi.

Phân loại

Thuốc cắt cơn chia làm 2 loại: thuốc cắt cơn tác dụng ngắn và thuốc cắt cơn tác dụng lâu dài.

- thuốc điều trị hen phế quản này tác dụng ngắn là salbutamol, fenoterol, terbutalin (bricanyl) tác dụng nhanh và thời gian tác dụng trong khoảng từ 4 – 6 giờ.

- thuốc tác dụng kéo dài như salmeterol, formoterol có thời gian tác dụng kéo dài khoảng 12 giờ. Hoặc sử dụng thuốc chứa corticosteroid dùng đường toàn thân. Loại này được sử dụng để điều trị những cơn hen suyễn cấp mức độ trung bình đến nặng. Các thuốc này cũng giúp làm giảm nguy cơ lên cơn hen trở lại.

Thuốc được sản xuất dưới nhiều dạng dùng khác nhau: viên uống, tiêm, bột hít hay xịt khí dung. Để dứt cơn hen nhanh nhất bệnh nhân nên sử dụng thuốc cắt cơn dưới dạng xịt khí dung. Người bệnh hen suyễn lưu ý nên có sẵn thuốc xịt cắt cơn bên cạnh để nhanh chóng sử dụng khi thấy triệu chứng hen phế quản xuất hiện.

Nhóm thuốc dự phòng hen suyễn

Tác dụng

Thuốc dự phòng hen suyễn có tác dụng phòng ngừa các triệu chứng hen suyễn. Bệnh nhân dùng đầy đủ và đều đặn thuốc dự phòng sẽ giảm sự co thắt phế quản, đồng thời làm giảm viêm đường dẫn khí, hiện được coi là thuốc đặc trị hen suyễn. Do đó, thuốc dự phòng hen phế quản nên được dùng lâu dài, thậm chí là suốt đời.

Phân loại

- Thuốc làm giãn đường dẫn khí tác dụng kéo dài (các thuốc đồng vận beta-2 tác dụng kéo dài)

- Thuốc corticosteroid: giúp cải thiện chức năng phổi, dự phòng các triệu chứng hen suyễn, giảm thiểu khả năng tổn thương dài hạn đường dẫn khí, và giảm việc sử dụng các thuốc cắt cơn.

Thuốc thường được sử dụng

- Tại Việt Nam hiện nay thường sử dụng thuốc điều trị hen phế quản hít corticosteroid chứa hoạt chất: Beclomethasone, Budesonide, Fluticasone.

- Thuốc làm giãn đường dẫn khí tác dụng kéo dài có những hoạt chất: Salmeterol, Formoterol.

Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2017

Bệnh hen phế quản và dấu hiệu nhận biết hen

Bệnh hen phế quản và dấu hiệu nhận biết

Hen là một loại bệnh ảnh hưởng đến đường dẫn khí của phổi (phế quản). Hen gây ra bởi quá trình viêm mạn tính của phế quản. Nó làm cho phế quản, hoặc đường dẫn khí, của bệnh nhân trở nên nhạy cảm với nhiều tác nhân khác nhau.

- Khi quá trình viêm bị kích thích bởi một số yếu tố bên trong và bên ngoài, đường thở sẽ phù nề và ứ đàm.

- Các cơ của phế quản sẽ co lại làm cho phế quản hẹp hơn nữa.

- Sự hẹp này làm cho khí khó có thể thoát ra được khỏi phổi.

- Hiện tượng kháng lại lực thở ra này là triệu chứng đặc trưng của bệnh hen suyễn.

Vì bệnh hen phế quản gây ra sự đề kháng, hoặc tắc nghẽn, luồng không khí thở ra, nên nó được gọi là bệnh phổi tắc nghẽn. Thuật ngữ y học chỉ tình trạng này là bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính hay COPD.

Cũng như các bệnh mạn tính khác, hen phế quản là một bệnh mà bạn phải chịu đựng nó hằng ngày trong suốt cuộc đời. Bạn có thể bị lên cơn hen bất cứ khi nào bạn tiếp xúc với một trong những dị nguyên của bạn. Không giống như các bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính khác, hen có thể phục hồi được.

- Bệnh hen phế quản không thể chữa khỏi được nhưng có thể kiểm soát được.

- Bạn có cơ hội kiểm soát được hen nhiều hơn nếu như được chẩn đoán sớm và bắt đầu điều trị ngay sau đó.

- Nếu được điều trị thích hợp, bệnh nhân hen có thể sẽ ít lên cơn hen hơn và các cơn hen nếu có xảy ra thì cũng sẽ ít nặng nề hơn.

- Nếu không được điều trị, có thể bệnh nhân sẽ lên cơn hen thường xuyên và nặng hơn và thậm chí có thể tử vong.

Hiện nay, bệnh hen phế quản gặp nhiều hơn ở các nước phát triển. Lý do chính xác vẫn chưa được biết rõ nhưng có thể có sự góp phần của những yếu tố dưới đây:

- Chúng ta trải qua một tuổi thơ ít phải chịu tiếp xúc với những tác nhân nhiễm trùng như ông bà ta lúc trước nên hệ miễn dịch của chúng ta cũng trở nên ít nhạy cảm hơn.

- Chúng ta ở nhà nhiều hơn thời trước nên tiếp xúc với các yếu tố dị ứng ở trong nhà nhiều hơn chẳng hạn như bụi nhà.

- Không khí thời nay cũng bị ô nhiễm nhiều hơn thời xưa.

- Cách sống hiện đại làm chúng ta ít vận động hơn trước và béo phì ngày càng phổ biến. Có một vài bằng chứng cho thấy có sự liên quan giữa béo phì và hen.

Dấu hiệu nhận biết bệnh hen phế quản

- Thở khò khè

- Không thở được.

- Co nặng ngực.

- Ho.

- Nói khó.

- Khò khè là tiếng rít đi kèm với nhịp thở.

- Tiếng khò khè thường nghe thấy ở thì thở ra, tuy nhiên có cũng có thể nghe thấy được ở thì hít vào.

- Không phải tất cả những bệnh nhân bị hen đều thở khò khè và không phải tất cả những người thở khò khè đều bị hen.